Chính trị Cộng_hòa_Liên_bang_Xã_hội_chủ_nghĩa_Nam_Tư

SIV 1, Hội đồng Hành pháp Liên bang.

Hiến pháp

Hiến pháp của Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nam Tư từng được sửa đổi vào các năm 1963 và 1974. Liên minh những người cộng sản Nam Tư đã chiến thắng trong cuộc bầu cử đầu tiên, và đã duy trì quyền lực trong suốt thời gian nhà nước này tồn tại. Chính đảng này bao gồm các đảng cộng sản từ các nước cộng hòa thành phần. Liên minh có thể tiến hành cải cách địa vị chính trị của mình thông qua các đại hội đảng, trong đó các đại biểu đến từ các nước cộng hòa mà mình đại diện sẽ biểu quyết về việc thay đổi chính sách của đảng, đại hội cuối cùng được tổ chức vào năm 1990. Quốc hội của Nam Tư được gọi là Hội đồng Liên bang, tòa nhà quốc hội Nam Tư nay là tòa nhà nghị viện Serbia. Các thành viên Hội đồng Liên bang đều là những người cộng sản.

Lãnh đạo chính trị chủ yếu của nhà nước là Josip Broz Tito, song cũng có một số chính tị gia quan trọng khác, đặc biệt là sau cái chết của Tito. Năm 1974, Tito được tuyên bố là Chủ tịch trọn đời của Nam Tư. Sau khi ông ta qua đời năm 1980, vị thế độc tôn của chủ tịch đã bị phân chia thành một tập thể lãnh đạo, nơi mà các đại diện của mỗi nước cộng hòa có thể bày tỏ mối quan tâm đến nơi mà họ đại diện và đề xuất giải quyết các vấn đề. Chức vụ đứng đầu tập thể lãnh đạo dược luân phiên giữa đại diện của các nước cộng hòa khác nhau. Người đứng đầu của tập thể lãnh đạo được xem là nguyên thủ quốc gia của Nam Tư. Tập thể lãnh đạo chấm dứt vào năm 1991 cùng với sự tan rã của Nam Tư.

Năm 1974, đã diễn ra các cải cách quan trọng trong hiến pháp của Nam Tư. Trong số các thay đổi, có một việc gây tranh cãi là phân chia nội bộ Serbia, theo đó hình thành nên hai tỉnh tự trị trong thành phần nước cộng hòa này, VojvodinaKosovo. Mỗi tỉnh tự trị này đều có quyền bỏ phiếu bình đẳng với các nước cộng hòa, song trước đó họ tham gia các quyết định của Serbia với vị thế là một bộ phận cấu thành của nước cộng hòa này.

Chủ thể liên bang

Trong nội bộ, liên bang Nam Tư được phân thành sáu nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa thành phần được thành lập vào năm 1944[42] và hai tỉnh tự trị (Kosovo và Vojvodina) trong thành phần Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Serbia. Thủ đô của liên bang là Beograd.

TênThủ đôQuốc kỳQuốc huyVị trí
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Bosna và HercegovinaSarajevo
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa CroatiaZagreb
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa MacedoniaSkopje
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa MontenegroTitograd, nay là Podgorica
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa SerbiaTỉnh tự trị Xã hội chủ nghĩa KosovoTỉnh tự trị Xã hội chủ nghĩa VojvodinaBeogradPrištinaNovi Sad
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa SloveniaLjubljana

Chính sách đối ngoại

Dưới thời Tito, Nam Tư đã có một chính sách trung lập trong Chiến tranh Lạnh. Liên bang này đã phát triển các mối quan hệ chặt chẽ với các nước đang phát triển cũng như duy trì các mối quan hệ mật thiết với Hoa Kỳ và các nước Tây Âu. Stalin xem Tito là một kẻ phản bội và công khai lên án ông. Năm 1968, sau khi Liên Xô xâm chiếm Tiệp Khắc, Tito đã thiết lập thêm tuyến phòng thủ trên đường biên giới giáp với các nước trong khối Hiệp ước Warszawa.[43] Ngày 1 tháng 1 năm 1967, Nam Tư trở thành quốc gia cộng sản đầu tiên mở cửa biên giới cho tất cả các du khách nước ngoài và bãi bỏ thủ tục thị thực.[44]

Trong cùng năm đó, Tito bắt đầu hoạt định tích cực nhằm thúc đẩy một giải pháp hòa bình trong cuộc Xung đột Ả Rập-Israel. Kế hoạch của ông là kêu gọi các quốc gia Ả Rập công nhận Nhà nước Israel để đối lấy việc Israel trao trả lại các lãnh thổ mà nước này đã giành được.[45] Năm 1968, Tito đã đưa ra đề nghị với lãnh đạo Tiệp Khắc Alexander Dubček rằng mình sẽ bay đến Praha báo trước ba giờ nếu Dubček cần giúp đỡ để chống lại Liên Xô, lực lượng đang chiếm đóng Tiệp Khắc khi đó.[46]

Nam Tư có một mối quan hệ phức tạp với chế độ cộng sản Enver Hoxha ở Albania. Ban đầu, quan hệ giữa Nam Tư và Albanian là mối quan hệ sẵn sàng giúp đỡ, khi đó Albania đã chấp thuận thiết lập một thị trường chung với Nam Tư và quy định dạy tiếng Serbia-Croatia cho học sinh ở các trường trung học. Vào thời điểm này, ý niệm về việc thành lập một Liên bang Nam Tư đã được thảo luận giữa Nam Tư, Albania, và Bulgaria. Albania vào thời điểm này phụ thuộc nhiều vào hỗ trợ kinh tế của Nam Tư để có kinh phí nâng cấp cơ sở hạ tầng yếu kém ban đầu. Rắc rối giữa Nam Tư và Albania bắt đầu khi Albania bắt đầu phàn nàn rằng Nam Tư đã chi trả quá ít để lấy tài nguyên thiên nhiên của Albania. Sau đó, mối quan hệ giữa Nam Tư và Albania trở nên xấu đi. Từ năm 1948 trở đi, Liên Xô đã chống lưng để Albania chống lại Nam Tư. Trên vấn đề Kosovo, nơi có người Albania chiếm đa số, cả Nam Tư và Albania đều cố gắng để vô hiệu hóa các mối đe doạ từ các xung đột mang tính dân tộc chủ nghĩa, Hoxha phản đối tình cảm dân tộc chủ nghĩa tại Albania do ông chính thức tin tưởng vào lý tưởng tình huynh đệ quốc tế của chủ nghĩa cộng sản đối với tất cả mọi người, mặc dù trong một vài thời điểm trong thập niên 1980, Hoxha đã thực hiện một số bài phát biểu khích động để ủng hộ người Albania tại Kosovo chống lại chính phủ Nam Tư, những khi tình cảm của quần chúng tại Albania là kiên quyết ủng hộ người Albania tại Kosovo.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Cộng_hòa_Liên_bang_Xã_hội_chủ_nghĩa_Nam_Tư http://users.skynet.be/Emmanuel.Gustin/faq/shotdow... http://www.country-data.com/cgi-bin/query/r-14786.... http://www.economist.com/node/21528599 http://www.google.com/books?hl=ro&lr=&id=9isLX6inK... http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,7... http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,8... http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,8... http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,8... http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,9... http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,9...